Di tích lịch sử Văn bia Quế Lâm Ngự Chế
  Di tích lịch sử Văn bia Quế Lâm Ngự Chế thuộc tổ 3, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Nơi đây đã minh chứng thời kỳ lịch sử của vị vua hùng tài, đại lược Lê Thái Tông cùng quân sỹ đi chinh phạt quân phiến loạn ở vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc, giữ bình yên cho bờ cõi nước nhà. Di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia ngày 05/02/1994.

 

Bài thơ khắc trên vách đá

 Vua Lê Thái Tông, tên húy là Nguyên Long, là con thứ của Vua Lê Thái Tông (Lê Lợi) và Cung từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương (nay là Thọ Xuân – Thanh Hóa).

 Vua sinh ngày 20 tháng 11 năm Quí Mão (1423), ngày 3 tháng 3 năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) được sắc phong làm Lương Quận công. Ngày 6 tháng Giêng năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) được lập làm Hoàng Thái Tử. Ngày 8 tháng 9 năm Thuận Thiên thứ 6 (1433) lên ngôi Hoàng đế, lấy năm sau làm niên hiệu năm Thiệu Bình thứ nhất (1434) đến năm thứ 7 đổi niên hiệu là Đại Bảo (1440) lấy hiệu là “Quế Lâm Động Chủ” nối tiếp hiệu “Lam Sơn Động Chủ” của vua cha Lê Thái Tổ. Ở ngôi được 9 năm (1433-1442) đi tuần thú ở miền Đông (Chí Linh - Hải Dương) rồi băng hà, hưởng thọ 20 tuổi, táng ở Hựu Lăng - Lam Sơn - Thanh Hóa.

  Từ khi lên ngôi, Vua Lê Thái Tông rất chú ý đến miền Tây Bắc, miền đất phên dậu của Tổ quốc. Để củng cố và đảm bảo sự thống nhất Quốc gia, cũng như Vua Lê Thái Tổ và các vị vua khác, trong 9 năm trị vì đất nước, vua Lê Thái Tông đã 2 lần chỉ huy quân sỹ lên miền Tây Bắc dẹp bọn phản nghịch. Tháng 3 năm Canh Thân (1440), nhà vua lần đầu tiên thân chinh cùng quân sỹ lên trấn Miền Tây đi đánh thổ quân phản nghịch tên là Thượng Nghiễm ở Châu Mường Muổi (nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La).

Nhà vua đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ nên quân của triều đình đã nhanh chóng dẹp tan bọn phản nghịch. Trên đường trở về, nhà vua cùng quân sỹ nghỉ chân tại Động La (Thẳm báo ké), một hang đá tự nhiên ở châu Mường La. Vua thấy nơi đây cảnh đẹp, địa lý thuận lợi, với ý nghĩa sâu xa và tâm hồn thanh thản, nhà vua đã cho quân sỹ khắc bài thơ và lời tựa trên vách đá ở cửa Động La. Bài thơ có 14 dòng gồm 140 chữ Hán có nội dung như sau:

                   Quế Lâm Ngự Chế

 “Thuận Mỗi châu nghịch tù trưởng Thượng Nghiễm vong ân bội nghĩa, xuất chúng tòng Ai Lao tắc nghịch, dư thân đổng lục chinh chính kỳ tội, chỉ cố chi gian thiêu hủy lưỡng trạng, sơn nhai, đoạt kỳ tình truyền. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, tiến tượng ngật hàng, dư linh kỳ vô bặc, vô nhung. Bất nhẫn tận lục, nãi xã quyết tội ban sư nhi hoàn lưu đế nhất rương vân:

Bình Chẩm lưu tâm niệm viễn nhân

Man tù hà sự tốc vong thân

Thế gian nhược hữu anh hùng chủ

Thiên hạ thùy dung phản nghịch thần

Ô đạo duyên vân không thị hiểm

Âm nhai rươi noãn kỉ diện xuân

Cách trừ ô nhiễm an dân thiện

Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân”

(Đại Bảo nguyên niên Quý xuân Trung hoàn cát nhật)

               Dịch nghĩa:

                                                 Bài thơ Quế Lâm ngự chế

               “Tù trưởng Thuận Châu là Thượng Nghiễm phản nghịch, vong ơn bội nghĩa, đem quân theo người Ai Lao làm phản. Thân chinh điều khiển sáu quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bèn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về để lại một bài thơ rằng:

Nghĩ tới người xa đêm khổ tâm

Thổ tù sao lại dám quên thân

Thế gian đã có anh hùng chúa

Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần

Đường sá khó khăn đừng cậy hiểm

Hang cùng đã ấm áp hơi xuân

Yên được dân lành nhơ nhớp hết

Dân xa được hưởng tấm lòng nhân”.

(Năm đầu niên hiệu Đại Bảo

Canh Thân 1440, ngày lành giữa tháng 3)

   Đúng một năm sau, tháng 3 năm 1441 vua lại đem quân lên dẹp loạn Nghịch Nghiễm ở Châu Mường Muổi, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng, giúp đỡ vì vậy quân của triều đình đã nhanh chóng bắt được tướng Ai Lao là Đạo Mông, đồng thời bắt được con của Thượng Nghiễm là Sinh Tượng và Chàng Đồng. Tên phản nghịch Thượng Nghiễm ra hàng và chịu tội, kể từ đây dải đất biên cương phía Tây của Tổ quốc đã được yên bình.

Để tri ân công đức của Vua Lê Thái Tông và để di tích Văn bia Quế Lâm Ngự Chế mãi mãi trang nghiêm, tỏa sáng trong lòng các thế hệ nối tiếp, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng lành mạnh của đồng đảo các tầng lớp nhân dân, được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thông tin, tháng 9/2001 Tỉnh ủy và UBND Sơn La đã cho khởi công xây dựng đền thờ Vua Lê Thái Tông tại thị xã Sơn La và được khánh thành ngày 22/01/2003, lấy tên là “Quế Lâm linh từ”.

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image
Video tuyên truyền nông thôn mới
THÔNG TIN TRA CỨU

image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1